Hotline: 0274 383 347
Thứ sáu, 20-6-25 16:49:30

Dự thảo nghị quyết của Quốc hội về khoanh tiền nợ thuế, xóa tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp đối với người nộp thuế không còn khả năng nộp ngân sách Nhà nước

0

Về thực trạng

Thực hiện quy định của Luật Quản lý thuế năm 2006 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý thuế, Chính phủ đã tổ chức bộ phận quản lý nợ thuế và cưỡng chế nợ thuế từ Trung ương đến địa phương, cơ quan quản lý thuế đã triển khai đồng bộ, quyết liệt các biện pháp thu hồi nợ đọng thuế.

Theo đó, tỷ trọng tổng nợ trên tổng thu nội địa đã giảm mạnh, từ 12,2% năm 2014 đến năm 2018 giảm xuống ở mức 6,7% và tính đến cuối tháng 8 năm 2019 ở mức 6,9%. Mặc dù vậy, tổng số tiền nợ thuế cơ quan thuế và cơ quan hải quan quản lý tính đến ngày 31-8-2019 vẫn còn 88.000 tỷ đồng, trong đó tiền nợ thuế không còn khả năng thu ngân sách gần 43.000 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ 48,7% tổng số tiền nợ thuế.

Cụ thể về số nợ cơ quan thuế quản lý là hơn 82.000 tỷ đồng, trong đó: Tiền nợ thuế có khả năng thu là hơn 26.000 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 32,5% tổng số tiền nợ thuế; tiền phạt vi phạm hành chính về thuế và tiền chậm nộp phát sinh của nợ có khả năng thu là gần 17.000 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 20,3% tổng số tiền nợ thuế. Tiền nợ thuế không còn khả năng nộp của người nộp thuế đã chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự, liên quan đến trách nhiệm hình sự, đã giải thể, phá sản, ngừng, nghỉ và bỏ địa chỉ kinh doanh là 39.000 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 47,3% tổng số tiền nợ thuế.

Trong số nợ đọng nêu trên có hơn 800.000 người nộp thuế đã chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự, đã tự phá sản, giải thể, người nộp thuế đã chấm dứt kinh doanh, không hoạt động tại địa chỉ đã đăng ký kinh doanh, địa chỉ liên lạc đã đăng ký với cơ quan thuế, người nộp thuế đã bị cơ quan quản lý thuế có văn bản đề nghị cơ quan có thẩm quyền thu hồi hoặc đã bị cơ quan có thẩm quyền thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, người nộp thuế bị thiệt hại vật chất do gặp thiên tai, thảm họa, dịch bệnh, hỏa hoạn, tai nạn bất ngờ, với tổng số nợ đọng là hơn 38.000 tỷ đồng. Trong số này, nợ tiền thuế là 22.000 tỷ đồng, nợ tiền phạt chậm nộp, tiềm chậm nộp là hơn 16.000 tỷ đồng. Song đến 31-12-2018, tổng số tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp cơ quan quản lý thuế của các đối tượng nêu trên là gần 12.000 tỷ đồng thực tế không có khả năng thu hồi.

Sự cần thiết ban hành nghị quyết

Để giải quyết trình trạng nợ đọng thuế không còn khả năng nộp ngân sách, Chính phủ thấy cần thiết phải xây dựng nghị quyết của Quốc hội về khoanh tiền nợ thuế, xóa tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp đối với người nộp thuế không còn khả năng nộp ngân sách Nhà nước, xuất phát từ những lý do sau:

Một là, Luật Quản lý thuế 38/2019/QH14 đã ban hành có quy định đầy đủ các trường hợp xử lý nợ (tiền thuế, tiền phạt vi phạm hành chính, tiền chậm nộp), đối với từng trường hợp cụ thể (chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự, giải thể, phá sản, bị thiên tai, bất khả kháng…) và các điều kiện xử lý, thẩm quyền xử lý nợ. Tuy nhiên, Luật Quản lý thuế 38/2019/QH14 có hiệu lực thi hành từ ngày 1-7-2020, vì vậy đối với các khoản nợ phát sinh trước ngày 1-7-2019 không được hồi tố để xử lý.

Hai là, Luật Quản lý thuế hiện hành quy định 3 trường hợp được xóa nợ thuế nhưng phải đáp ứng được các điều kiện là phải thực hiện tuần tự các biện pháp cưỡng chế nợ và khoản nợ thuế đủ 10 năm. Hầu hết các khoản nợ hiện nay chưa đủ điều kiện 10 năm nên không được xử lý nợ; trong khi đó đối với các trường hợp người nộp thuế đã chết, đã mất tích, giải thể, phá sản, ngừng bỏ hoạt động kinh doanh, thực tế không còn khả năng nộp ngân sách Nhà nước nhưng vẫn phải tính phạt và tiền chậm nộp. Số nợ này là nợ ảo, không còn khả năng thu vào ngân sách. Nếu Luật Quản lý thuế số 38/2019/ QH14 có hiệu lực thi hành từ ngày 1-7-2020 thì các đối tượng này được khoanh nợ.

Tuy nhiên, Luật Quản lý thuế hiện hành không có quy định khoanh nợ. Đây là trường hợp phát sinh trước ngày Luật Quản lý thuế mới có hiệu lực, nhưng lại chưa được quy định tại Luật Quản lý thuế hiện hành. Vì vậy, Chính phủ thấy cần thiết phải báo cáo Quốc hội cho cơ chế xử lý.

Ba là, Luật Quản lý thuế số 78/2006/QH11 trước đây quy định tiền phạt, phạt chậm nộp. Tuy nhiên, theo quy định pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính yêu cầu phải tách hành vi vi phạm hành chính và tiền chậm nộp. Luật Quản lý thuế số 21/2012/QH13 có hiệu lực từ 1-7-2013 đã điều chỉnh hành vi chậm nộp tiền thuế bị “phạt chậm nộp” thành “tiền chậm nộp”. Do đó, đối với các khoản “tiền chậm nộp” theo Luật Quản lý thuế số 21/2012/QH13 đến nay chưa có cơ chế xử lý (Luật Quản lý thuế số 21/2012/ QH13 không có điều khoản chuyển tiếp xử lý nợ đọng này).

Bốn là, Luật Quản lý thuế số 78/2006/QH11 quy định đối với các trường hợp gặp thiên tai bất khả kháng thì được miễn xử phạt vi phạm pháp luật đối với hành vi chậm nộp tiền thuế hay còn gọi là “phạt chậm nộp”. Tuy nhiên, Luật Quản lý thuế số 21/2012/QH13 thì không quy định miễn đối với “tiền chậm nộp”. Vì vậy, đối với một số khoản tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp thuộc các trường hợp gặp thiên tai bất khả kháng phát sinh tiền chậm nộp chưa được xử lý.

Năm là, các khoản nợ tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp phát sinh do ngân sách Nhà nước chưa thanh toán cho người nộp thuế cung ứng hàng hóa, dịch vụ được thanh toán trực tiếp bằng nguồn vốn ngân sách Nhà nước thì theo quy định tại Luật Quản lý thuế và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý thuế, từ ngày 1-1- 2011 nếu người nộp thuế chưa được thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản thì được gia hạn nộp thuế tối đa 2 năm; đến nay còn nợ đọng tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp chưa được xử lý, cần có cơ chế xử lý. Đồng thời, cần quy định rõ không chỉ nhà thầu chính mà cả nhà thầu phụ được quy định trong hợp đồng ký với chủ đầu tư.

Từ tình hình trên, Chính phủ thấy rằng việc báo cáo Quốc hội có biện pháp để xử lý nợ đối với người nộp thuế không còn khả năng nộp ngân sách Nhà nước là cần thiết, tạo cơ sở pháp lý để xử lý nợ đọng trước ngày 1-7-2020 mà không có khả năng thu nộp ngân sách Nhà nước.

CỤC THUẾ BÌNH DƯƠNG

Từ ngày 1-7 mã định danh cá nhân sẽ được dùng làm mã số thuế

Ngành thuế cho biết từ ngày 1-7- 2025, mã định danh cá nhân sẽ được sử dụng thay mã số thuế.

Số hóa dịch vụ ngân hàng, gia tăng lợi ích

Xu hướng số hóa dịch vụ ngân hàng đang ngày càng diễn ra mạnh mẽ. Các ngân hàng đã chủ động đón cơ hội, nắm bắt xu hướng này để gia tăng lợi thế cạnh tranh và mang đến nhiều trải nghiệm tốt hơn cho khách hàng.

Ông Võ Sơn Điền làm Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ tỉnh nhiệm kỳ 2025 – 2028

Chiều 19-6, tại Trung tâm Hội nghị và Triển lãm tỉnh đã diễn ra Đại hội Hiệp hội Doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ tỉnh Bình Dương lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 – 2028.

Phiên họp 101 UBND thông qua nhiều nội dung quan trọng

Chiều 19-6, ông Võ Văn Minh, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh đã chủ trì phiên họp lần thứ 101 UBND tỉnh. Cùng tham dự có các Phó Chủ tịch UBND tỉnh: Bùi Minh Thạnh, Bùi Minh Trí...

Giá xăng dầu đồng loạt tăng, RON95-III lên sát 21.300 đồng mỗi lít

Từ 15 giờ ngày 19-6, xăng E5 RON92 tăng 1.169 đồng/lít; xăng RON95-III tăng 1.277 đồng/lít. Ngoài ra, dầu diesel tăng 1.456 đồng/lít; dầu hỏa tăng 1.412 đồng/lít và dầu mazut cộng thêm 1.182 đồng/kg.

Biwase Cần Thơ đưa vào vận hành Nhà máy nước Cần Thơ 3 công suất 50.000m3/ngày đêm

Ngày 18-6, Công ty cổ phần Nước Biwase Cần Thơ, đơn vị thành viên của Công ty cổ phần, Tổng Công ty Nước – Môi trường Bình Dương (Biwase) đã tổ chức lễ khánh thành Nhà máy nước Cần Thơ 3...

Tạo thuận lợi để doanh nghiệp phát triển

Thời gian qua, Bình Dương có sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế - xã hội, tiên phong thực hiện nhiều chương trình đột phá, nhiều đề án quan trọng…

Chi cục Thuế khu vực XVI: Tổng thu thuế đạt 62,7% dự toán năm

Theo Chi cục Thuế khu vực XVI, trong 6 tháng đầu năm 2025 tổng thu thuế nộp vào ngân sách Nhà nước của 3 địa phương Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh ước đạt trên 46.511 tỷ đồng, đạt 62,7% dự toán năm 2025

Huyện Bàu Bàng: Đẩy nhanh hoàn thiện hệ thống hạ tầng

Huyện Bàu Bàng ghi dấu ấn trong thu hút đầu tư nhờ những nỗ lực không ngừng trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống hạ tầng cơ sở.

Thu hút hiệu quả dự án FDI công nghệ cao

Để tạo thế cạnh tranh thu hút dự án đầu tư nước ngoài vào công nghiệp công nghệ cao, Bình Dương đang tập trung nâng cấp các khu công nghiệp hiện hữu và đầu tư các khu công nghiệp thế hệ mới.