Hỏi: Ông Thái Văn T. và ông H. đang quản lý, sử dụng hai thửa đất liền kề tọa lạc tại xã Tân Hiệp, huyện Phú Giáo, tuy nhiên hai thửa đất này không có bất kỳ giấy tờ nào về quyền sử dụng đất. Trong quá trình sử dụng, mặc dù phân chia ranh giới đất rõ ràng nhưng ông H. vẫn nhiều lần thực hiện hành vi lấn chiếm sang phần đất của ông T., và ông T. cũng có căn cứ để xác định việc lấn chiếm này của ông H. Tuy nhiên, do thửa đất không có giấy chứng nhận nên ông T. không biết phải làm gì để bảo vệ quyền lợi của mình. Ông T. hỏi trường hợp tranh chấp của ông có thể được giải quyết ở đâu?
Ông THÁI VĂN T. (H.Phú Giáo)
Trả lời: Theo quy định tại Khoản 1 Điều 202 Luật Đất đai năm 2013 thì Nhà nước khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hòa giải hoặc giải quyết tranh chấp đất đai thông qua hòa giải ở cơ sở. Trường hợp tranh chấp đất đai mà các bên tranh chấp không hòa giải được thì gửi đơn đến UBND cấp xã nơi có đất tranh chấp để hòa giải theo quy định tại Điều 202 Luật Đất đai. Khi đó, Chủ tịch UBND cấp xã sẽ có trách nhiệm tổ chức việc hòa giải tranh chấp đất đai. Thủ tục hòa giải tranh chấp đất đai tại UBND cấp xã được thực hiện trong thời hạn không quá 45 ngày, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai.
Trường hợp tranh chấp đất đai đã được hòa giải tại UBND cấp xã mà không thành và đương sự không có bất kỳ giấy tờ nào về quyền sử dụng đất thì chỉ được lựa chọn một trong hai hình thức giải quyết tranh chấp đất đai theo quy định sau đây:
- Nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp tại UBND cấp có thẩm quyền nơi có đất tranh chấp;
- Khởi kiện tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự;
Như vậy, trường hợp này trước hết ông phải làm đơn gửi đến UBND xã Tân Hiệp để yêu cầu hòa giải tranh chấp đất đai. Trường hợp UBND xã hòa giải không thành thì ông có thể lựa chọn một trong hai hình thức là nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp tại UBND huyện Phú Giáo hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân huyện Phú Giáo theo quy định tại Khoản 2, Khoản 3 Điều 203 Luật Đất đai.
***
Hỏi: Cha mẹ chị Võ Phương L. có một phần đất tại tỉnh Tây Ninh, diện tích khoảng 5.000m2 nhưng hiện tại không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCN QSDĐ), quyền sở hữu nhà và tài sản khác gắn liền với đất. Cha mẹ chị chỉ có biên nhận đóng thuế đất hàng năm mà thôi. Chị L. muốn biết trong trường hợp phần đất trên nếu có xảy ra tranh chấp thì có căn cứ nào để giải quyết hay không?
Chị VÕ PHƯƠNG L. (TX.Dĩ An)
Trả lời: Theo quy định tại Khoản 16 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013 thì GCN QSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là chứng thư pháp lý để Nhà nước xác nhận QSDĐ, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người có QSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu tài sản khác gắn liền với đất.
Trường hợp xảy ra tranh chấp đất đai mà các bên tranh chấp không có GCN QSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật Đất đai và Điều 18 của Nghị định 43/2014/ NĐ-CP thì việc giải quyết tranh chấp được thực hiện dựa theo các căn cứ sau:
a) Chứng cứ về nguồn gốc và quá trình sử dụng đất do các bên tranh chấp đất đai đưa ra;
b) Thực tế diện tích đất mà các bên tranh chấp đang sử dụng ngoài diện tích đất đang có tranh chấp và bình quân diện tích đất cho một nhân khẩu tại địa phương;
c) Sự phù hợp của hiện trạng sử dụng thửa đất đang có tranh chấp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt;
d) Chính sách ưu đãi người có công của Nhà nước;
đ) Quy định của pháp luật về giao đất, cho thuê đất, công nhận QSDĐ.
(Theo Khoản 1 Điều 91 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15- 5-2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai).
SỞ TƯ PHÁP TỈNH