Hotline: 0274 383 347
Thứ hai, 9-6-25 08:40:31

Trả lời bạn đọc ngày 25-02

0

Hỏi: Tôi có ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với ông A. Hai bên đã hoàn thành xong các thủ tục, hợp đồng chuyển nhượng đã được công chứng theo đúng quy định của pháp luật. Vừa qua, ông A. nảy sinh vấn đề tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng với tôi với nội dung tranh chấp là diện tích đất thực tế nhỏ hơn diện tích đất thể hiện trong hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã ký kết. Ông A. đã nộp đơn khởi kiện tại tòa án về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.

Tôi xin hỏi trong trường hợp này hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã được công chứng có được xem là tình tiết không phải chứng minh hay không?

ĐINH VĂN K. (TX.Dĩ An)

Trả lời:

Qua nội dung vướng mắc của ông, xin tư vấn cho ông như sau:

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì những tình tiết, sự kiện sau đây không phải chứng minh:

- Những tình tiết, sự kiện rõ ràng mà mọi người đều biết và được tòa án thừa nhận;

- Những tình tiết, sự kiện đã được xác định trong bản án, quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật hoặc quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đã có hiệu lực pháp luật;

- Những tình tiết, sự kiện đã được ghi trong văn bản và được công chứng, chứng thực hợp pháp; trường hợp có dấu hiệu nghi ngờ tính khách quan của những tình tiết, sự kiện này hoặc tính khách quan của văn bản công chứng, chứng thực thì thẩm phán có thể yêu cầu đương sự, cơ quan, tổ chức công chứng, chứng thực xuất trình bản gốc, bản chính.

Như vậy, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Đinh Văn K. và ông A. đã được công chứng theo đúng quy định, do đó hợp đồng này được xác định là những tình tiết, sự kiện không phải chứng minh.

Hỏi: Tôi và hộ liền kế có tranh chấp quyền sử dụng đất. Tôi đã gửi đơn đến Tòa án nhân dân huyện X. để giải quyết. Vừa qua, Tòa án nhân dân huyện X. đã xét xử vụ việc với kết quả là bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của tôi đối với phía bị đơn. Tôi đã làm thủ tục kháng cáo lên cấp phúc thẩm. Vậy trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm tôi có quyền cung cấp các chứng cứ, tài liệu khác để bảo vệ quyền lợi của mình hay không?

TRẦN VĂN N. (huyện Dầu Tiếng)

Trả lời:

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 287 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì đương sự được quyền bổ sung tài liệu, chứng cứ sau đây trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm:

- Tài liệu, chứng cứ mà tòa án cấp sơ thẩm đã yêu cầu giao nộp nhưng đương sự không cung cấp, giao nộp được vì có lý do chính đáng;

- Tài liệu, chứng cứ mà tòa án cấp sơ thẩm không yêu cầu đương sự giao nộp hoặc đương sự không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ việc theo thủ tục sơ thẩm.

Như vậy, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm thì ông vẫn có quyền giao nộp các tài liệu, chứng cứ mới mà ở giai đoạn sơ thẩm ông không thể giao nộp, cung cấp cho tòa do có lý do chính đáng hoặc do ông không thể biết chứng cứ này để giao nộp cho tòa.

SỞ TƯ PHÁP

TIÊU ĐIỂM

XEM NHIỀU

Hỏi - đáp về một số quy định của Luật Đất đai năm 2024

Hỏi: Các hành vi bị nghiêm cấm trong lĩnh vực đất đai theo Luật Đất đai năm 2024 bao gồm những hành vi nào?

Văn bản pháp luật

I. Chính phủ

Hỏi - đáp về một số quy định liên quan chứng thực điện tử

Hỏi: Chứng thực bản sao điện tử từ bản chính là gì?

Góc hỏi đáp pháp luật

Các hành vi nào bị nghiêm cấm trong lĩnh vực lao động?

Góc hỏi - đáp pháp luật

Người sử dụng lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trong trường hợp nào?

Văn bản mới

I. CHÍNH PHỦ

Hỏi - Đáp về bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND các cấp

Tính đến ngày được công bố bầu cử tức ngày 23-5-2021 thì cử tri phải đủ 18 trở lên.

Trả lời bạn đọc

Pháp luật quy định như thế nào về thẩm quyền quyết định việc áp dụng biện pháp hạn chế tập trung đông người hoặc tạm đình chỉ các hoạt động, dịch vụ tại nơi công cộng?

Trả lời bạn đọc

Theo quy định tại Nghị định 137/2020/NĐ-CP của Chính phủ ngày 27-11-2020 về quản lý sử dụng pháo, pháo là gì và bao gồm những loại nào? Pháo hoa và pháo hoa nổ được phân biệt như thế nào?

Trả lời bạn đọc

Chị Phạm Thị A và anh Nguyễn Văn K. chung sống với nhau như vợ chồng và cư trú tại xã P.C, huyện T.U. Anh, chị có tổ chức lễ cưới nhưng chưa đăng ký kết hôn